Khi chương trình giáo dục phổ thông mới triển khai thì nắm cơ bản nội dung của chương trình mới như thế nào. Nhưng thực tế, không phải phụ huynh nào cũng biết và có thời gian quan tâm, tìm hiểu kỹ. Bộ Chính trị đã giao bổ sung 65.980 biên chế giáo viên trong giai đoạn
Chương trình giáo dục trung học phổ thông giúp học sinh tiếp tục phát triển những phẩm chất, năng lực của người lao động, ý thức và nhân cách công dân; khả năng tự học và ý thức học tập suốt đời; khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực và sở
Nhìn chung cơ sở vật chất của nhiều nhà trường phổ thông còn hạn chế; hạn chế trong đổi mới phương pháp dạy học. Hình thức quản lí nhà trường, hoạt động chuyên môn của giáo viên cũng đã quen với quản lí tách biệt 3 môn Vật lý, Hóa học, Sinh học.
Trình bày tại Hội nghị tổng kết năm học 2016-2017 và triển khai nhiệm vụ năm học 2017-2018, thứ trưởng Bộ GD ĐT Phạm Mạnh Hùng khẳng định bên cạnh những đổi mới tích cực, giáo dục Việt Nam vẫn còn tồn tại một số điểm hạn chế, yếu kém trong năm học cũ, Bộ GD-ĐT thừa nhận vẫn chưa giải quyết
bộ giáo dục và đào tạo đã tiến hành tổng kết, đánh giá chương trình và sách giáo khoa hiện hành nhằm xác định những ưu điểm cần kế thừa và những hạn chế, bất cập cần khắc phục; nghiên cứu bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá trong nước và quốc tế; triển khai nghiên cứu, thử nghiệm một số đổi mới về nội dung, phương pháp giáo dục và đánh …
c58i. Năm học đầu tiên triển khai Chương trình, SGK GDPT mới ảnh Bộ GDĐTNăm học 2020-2021 diễn ra với nhiều khó khăn, khác biệt so với những năm học trướcNăm học 2020-2021 diễn ra trong bối cảnh đại dịch Covid-19, toàn ngành giáo dục thực hiện nhiệm vụ kép vừa tích cực thực hiện các giải pháp phòng chống dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp vừa triển khai Chương trình GDPT 2018 cấp tiểu học đối với lớp 1. Các ý kiến tại Hội nghị cho rằng, đây là năm học được triển khai trong bối cảnh có những yếu tố khó khăn và khác biệt so với các năm học trước. Trước khi vào lớp 1 trẻ 6 tuổi chủ yếu ở nhà khoảng 6 tháng, từ tháng 2-8/2020 nên không được trực tiếp học chương trình mầm non. Việc được học nhận biết các mặt chữ, hướng dẫn các hoạt động làm quen học tập và chuẩn bị tâm lý, tinh thần cho các em trước khi vào lớp 1 rất khó khăn và hầu như không thực hiện khác, do tình hình dịch Covid-19 nên năm học 2020-2021 được tổ chức học chính thức sau ngày khai giảng 05/9/2020 và không có 2 tuần để học sinh và giáo viên làm quen nhằm tạo tâm thế sẵn sàng cho học sinh lớp phía giáo viên, do tình hình dịch Covid-19, ngành giáo dục và các địa phương đã rất cố gắng nỗ lực thực hiện các chương trình tập huấn thông qua trực tuyến, được thực hành trên môi trường mạng, nhiệm vụ mới, tập huấn với hình thức mới, giáo viên ít được tương tác với đồng nghiệp và các giảng viên, vì vậy đã có những lúng túng bước đầu khi triển khai thực hiện Chương trình GDPT 2018 và SGK mới ở lớp cạnh đó, chương trình GDPT 2018 chỉ quy định chuẩn đầu ra, yêu cầu cần đạt; SGK không biên soạn theo tiết như trước đây mà biên soạn theo chủ đề, mạch kiến thức; giáo viên, nhà trường nghiên cứu chương trình, SGK, đặc điểm của học sinh tại trường của mình để xây dựng kế hoạch dạy học cụ thể, phù hợp với đối tượng. Đây là điểm mới, giao quyền và trách nhiệm cho giáo viên, nhà trường nhiều kiểm tra thực tế cho thấy giáo viên, nhà trường một số nơi chưa tự tin và có sự lúng túng khi thực hiện giai đoạn đầu năm học 2020-2021; cha mẹ học sinh chưa được cung cấp thông tin đầy đủ về chương trình nên có biểu hiện lo lắng, so sánh chương trình, SGK cũ và chương trình và SGK mới, gây áp lực cho học sinh, GV và nhà trường…Tất cả các trường tiểu học đã hoàn thành chương trình theo đúng kế hoạch, chất lượng học sinh lớp 1 đảm bảo theo chuẩn đầu ra, yêu cầu cần đạt của chương trình ảnh Bộ GDĐTHọc sinh lớp 1 đã đọc thông viết thạo ngay trong học kỳ 1Để tổ chức triển khai thực hiện Chương trình SGK GDPT 2018 đối với lớp 1, căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật quy định về triển khai thực hiện chương trình, Bộ GDĐT đã ban hành các văn bản hướng dẫn về chuyên nhà trường đã chú trọng đổi mới công tác quản lý, quản trị trường học theo hướng phát huy tính chủ động, linh hoạt của nhà trường và năng lực tự chủ, sáng tạo của tổ chuyên môn, GV trong việc thực hiện Chương trình, SGK GDPT đối với cấp tiểu học, đặc biệt đối với lớp 1; khai thác, sử dụng SGK, các nguồn học liệu, thiết bị dạy học hiệu quả, phù hợp thực tiễn; vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nhằm phát triển năng lực, phẩm chất học đó, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản trị hoạt động giáo dục của nhà trường; đảm bảo tính dân chủ, công khai, thống nhất giữa các tổ chức trong nhà trường; phối hợp giữa nhà trường, cha mẹ học sinh và các cơ quan, tổ chức có liên quan tại địa phương trong việc tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục của nhà cáo của Bộ GDĐT cho thấy, 100% trường tiểu học ưu tiên thực hiện đảm bảo tỉ lệ 1 phòng học/lớp, cơ sở vật chất, sĩ số học sinh/lớp theo quy định tại Điều lệ trường tiểu học đối với học sinh lớp 1, đảm bảo tỉ lệ giáo viên/lớp và cơ cấu GV để thực hiện dạy học các môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc, các môn học tự chọn theo quy định của Chương trình GDPT 2018. 100% học sinh lớp 1 được học 2 buổi/ngày, mỗi ngày bố trí không quá 7 tiết học, mỗi tiết 35 phút; kế hoạch giáo dục đảm bảo phân bổ hợp lí giữa các nội dung giáo dục, giúp học sinh hoàn thành nhiệm vụ học tập...Tổng hợp kết quả từ các địa phương về kết quả đánh giá cuối năm học 2020-2021 cho thấy tất cả các trường tiểu học đã hoàn thành chương trình theo đúng kế hoạch, chất lượng học sinh lớp 1 đảm bảo theo chuẩn đầu ra, yêu cầu cần đạt của chương trình, có một số mặt nổi trội hơn so với chương trình hiện hành; học sinh mạnh dạn tự tin hơn, dám thể hiện quan điểm của mình, biết nêu quan điểm qua tiết học cơ bản đã đọc thông viết thạo ngay trong học kỳ 1 và được củng cố tăng cường bền vững ở học kỳ nhiên, sau một năm triển khai thực hiện chương trình, SGK GDPT mới cho thấy vẫn còn một số tồn tại như, việc biên soạn SGK theo chương trình mới còn gặp nhiều hạn chế từ khâu thiết kế đến khâu tổ chức thực hiện, đặc biệt việc lựa chọn, sử dụng SGK ở các địa phương gặp nhiều khó khăn trong việc in ấn, phát liệu giáo dục địa phương do UBND cấp tỉnh tổ chức biên soạn, thẩm định còn chưa đáp ứng yêu cầu về tiến độ và chất lượng; việc quy định Bộ GDĐT phê duyệt tài liệu do địa phương biên soạn, thẩm định gặp khó khăn trong việc tổ chức thực lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL không đồng đều, đặc biệt là ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; còn khoảng cách lớn so với các vùng thuận lợi. Số lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL còn thừa thiếu cục bộ; đồng thời còn thiếu so với quy định, đặc biệt là cấp tiểu học. Đội ngũ GV còn chưa đồng bộ về cơ cấu, nhất là đối với cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông, đặc biệt trong bối cảnh triển khai thực hiện Chương trình GDPT 2018 có một số môn học ra, điều kiện bảo đảm về cơ sở vật chất tại các cơ sở GDPT thực hiện chương trình giáo dục phổ thông đặc biệt là cấp tiểu học vẫn còn nhiều khó khăn. Trong dư luận xã hội vẫn còn một bộ phận đưa ra một số ý kiến chưa thực sự tin tưởng vào quá trình đổi mới CT, SGK GDPT.
THEO Bộ GD và ĐT, chương trình tổng thể đã kế thừa và phát huy những ưu điểm của chương trình giáo dục phổ thông hiện hành, đồng thời tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước có nền giáo dục phát triển. Chương trình tổng thể được xây dựng theo hướng chuyển từ chú trọng trang bị kiến thức sang phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh. Mặt khác, chương trình tổng thể còn cụ thể hóa mục tiêu giáo dục toàn diện và hài hòa đức, trí, thể, mỹ thành mục tiêu của từng cấp học và nêu được những biểu hiện chủ yếu về phẩm chất, năng lực học sinh ở từng cấp học. Chương trình tổng thể đáp ứng yêu cầu của giai đoạn giáo dục cơ bản gồm cấp tiểu học năm năm và cấp THCS bốn năm, bảo đảm trang bị cho học sinh tri thức phổ thông nền tảng, toàn diện, cần thiết, đáp ứng yêu cầu phân luồng sau THCS. Trong khi đó, giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp cấp THPT ba năm bảo đảm học sinh tiếp cận nghề nghiệp phù hợp với năng lực, nguyện vọng và chuẩn bị cho giai đoạn sau giáo dục phổ thông có chất lượng. Theo các chuyên gia giáo dục, chương trình tổng thể đã định hướng khá rõ ràng cho các chương trình môn học về vị trí, mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, đánh giá giáo dục học sinh. Chương trình tổng thể cũng khẳng định những điều kiện cơ bản, tối thiểu về công tác quản lý, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, kỹ thuật của trường phổ thông; phù hợp với thực tiễn, đồng thời đặt ra yêu cầu nhà trường phải liên tục phát triển, tích cực thay đổi cách dạy và học. Bên cạnh việc nhất trí với các nội dung trong dự thảo chương trình tổng thể, một số ý kiến còn băn khoăn đề nghị Bộ GD và ĐT làm rõ, bổ sung vào trong dự thảo. Theo PGS Văn Như Cương, Trường THPT dân lập Lương Thế Vinh Hà Nội Bộ GD và ĐT cần xác định rõ mục tiêu, mục đích của giáo dục Việt Nam. Hiện nay, mục tiêu của các cấp học cuối cùng để thi đại học. “Một nền giáo dục ứng thí, phục vụ việc thi, lên lớp, không phải để phục vụ đời sống cao hơn. Do đó, toàn bộ đổi mới lần này phải nhắm vào việc bằng cấp không có giá trị mà là lao động có giá trị, làm ra của cải cho xã hội. Mặt khác, nếu không thay đổi lại mục tiêu giáo dục, không phân luồng mạnh học sinh sau trung học phổ thông, Việt Nam sẽ phải nhập khẩu lao động thợ bậc cao, còn lao động Việt Nam chỉ đi làm thuê những ngành nghề đơn giản nhất” - PGS Văn Như Cương nhấn mạnh. Tại hội nghị góp ý vào dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể mới đây, Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam đề nghị Bộ GD và ĐT cần công bố công khai danh tính “kiến trúc sư” của chương trình tổng thể, cũng như của từng môn học cụ thể để toàn xã hội biết. Không nên theo cách làm lâu nay là chỉ gắn chương trình với một tập thể mà thường là gồm những người có chức sắc hoặc gắn với người đứng đầu ngành. Theo đó, Bộ GD và ĐT chỉ nên ban hành chương trình chuẩn và cho phép các địa phương, các trường được quyền điều chỉnh để hoàn thành chương trình cụ thể. Trong khi đó, nhiều ý kiến cũng cho rằng, dự thảo chương trình tổng thể coi trọng việc dạy học theo hướng tích hợp và phân hóa nhưng phân hóa cuối cùng của THPT là Khoa học xã hội và Khoa học tự nhiên. Tuy nhiên, khi định hướng nghề nghiệp mà chỉ chia hai khối như trên là không đủ... Theo Thứ trưởng GD và ĐT Nguyễn Vinh Hiển Trong dự thảo chương trình tổng thể, chương trình THPT được xây dựng theo tinh thần bảo đảm phân hóa mạnh và sâu dần từ lớp 10 đến lớp 11, 12; học sinh học một số môn bắt buộc, đồng thời được tự chọn các môn học từ lớp 10 và chuyên đề học tập từ lớp 11, trong đó có những chuyên đề riêng về hướng nghiệp. Kết thúc giai đoạn này, học sinh có kiến thức, kỹ năng phổ thông cơ bản được quy định hướng theo lĩnh vực nghề nghiệp, phù hợp với năng khiếu, sở thích, phát triển tiềm năng cá nhân để chuẩn bị tốt cho giai đoạn giáo dục sau phổ thông hoặc bước vào cuộc sống lao động. Chương trình tổng thể sẽ quy định rõ hơn theo định hướng sau Học sinh THPT học tối thiểu bảy hoặc sáu môn và các chuyên đề học tập, hoạt động trải nghiệm sáng tạo; trong đó có bốn môn bắt buộc là Ngữ văn 1, Toán 1, Công dân với Tổ quốc, Ngoại ngữ 1. Các môn học tự chọn được định hướng như sau Tự chọn tùy ý, chọn theo nhóm môn... Đáng chú ý, nhiều ý kiến đề nghị có các môn học Lịch sử, Quốc phòng - An ninh trong chương trình giáo dục phổ thông mới. Bộ GD và ĐT cho rằng, theo dự thảo chương trình tổng thể, ở THPT, môn Công dân với Tổ quốc là một trong bốn môn học bắt buộc, tích hợp của ba phân môn Đạo đức - Công dân, Lịch sử và Quốc phòng - An ninh, đáp ứng yêu cầu cơ bản của chương trình giáo dục phổ thông mới là định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh; định hướng giá trị công dân quyền và nghĩa vụ, hội nhập quốc tế… Như vậy, nội dung giáo dục Lịch sử và Quốc phòng - An ninh là các nội dung giáo dục bắt buộc đối với tất cả học sinh cấp THPT. Ngoài ra, ở cấp THPT, học sinh còn được tự chọn học Lịch sử ở môn Khoa học xã hội là môn học dành cho những học sinh thiên hướng về các ngành thuộc lĩnh vực Khoa học tự nhiên và Công nghệ hoặc môn Lịch sử chọn theo nhóm và một số chuyên đề học tập mở rộng, chuyên sâu về Lịch sử là môn học và chuyên đề học tập dành cho học sinh có thiên hướng về Khoa học xã hội và Nghệ thuật. Đồng thời, nội dung này còn được giáo dục tích hợp trong các môn học khác, khắc phục sự trùng lặp trong nhiều môn học khác nhau ở chương trình giáo dục phổ thông hiện hành.
Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ báo cáo tham luận tại Đại hội Đảng lần thứ XIII. Trong bài tham luận của Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, những kết quả mà ngành giáo dục đào tạo đạt được như sau Những kết quả nổi bật Hệ thống cơ chế, chính sách trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cơ bản được hoàn thiện Bộ GD-ĐT đã rà soát, trình Chính phủ, Quốc hội ban hành và ban hành theo thẩm quyền các cơ chế, chính sách khắc phục những hạn chế, bất cập tồn tại từ nhiều năm trước. Lần đầu tiên trong 2 năm liên tiếp, Bộ đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018 và Luật Giáo dục sửa đổi, ban hành mới năm 2019, giải quyết những “nút thắt” và tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo. Năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân. Đến nay, về cơ bản các chủ trương của Nghị quyết 29 đã được thể chế hóa và được cụ thể trong các văn bản hướng dẫn thực hiện. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non; duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở Chỉ tiêu về đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non trên toàn quốc cho trẻ 5 tuổi đã hoàn thành ngay từ đầu năm 2017 với tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo 5 tuổi đạt 99,98%. Bên cạnh đó, cả nước đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2, trong đó có 18/63 tỉnh, thành phố đạt mức độ; cả nước đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 1, trong đó có 19/63 tỉnh, thành phố đạt mức độ 2, mức độ 3... Theo Bộ trưởng Nhạ, chủ trương một chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa nhằm khuyến khích sự sáng tạo trong dạy và học của giáo viên đã có những thành công bước đầu. Ban hành và tích cực triển khai Chương trình giáo dục phổ thông mới Cuối năm 2019, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã phê duyệt 5 bộ sách giáo khoa lớp 1, với tổng số 46 quyển của 9 môn học và hoạt động giáo dục cho phép sử dụng trong năm học 2020-2021. Việc lựa chọn sách giáo khoa được các địa phương thực hiện cơ bản nghiêm túc, công khai, minh bạch. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử ngành giáo dục nước ta thực hiện chủ trương này và đã có kết quả bước đầu đáng khích lệ. Công tác tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục ngày càng thực chất, hiệu quả hơn Đổi mới thi, kiểm tra và đánh giá chất lượng đối với giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông được triển khai theo hướng đánh giá năng lực, kết hợp kết quả quá trình với kết quả cuối năm học. Các bậc học sau phổ thông đã chuyển việc tổ chức đào tạo theo niên chế sang tích lũy mô đun hoặc tín chỉ. Việc kiểm tra, đánh giá trình độ đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ được thực hiện chặt chẽ hơn; chất lượng các luận văn, luận án từng bước theo tiêu chuẩn quốc tế. Công tác đổi mới thi tốt nghiệp trung học phổ thông, tuyển sinh đại học, cao đẳng được triển khai theo hướng đánh giá năng lực, kết hợp kết quả quá trình với kết quả cuối năm học, giảm áp lực và tốn kém cho xã hội. Chất lượng giáo dục phổ thông cả đại trà và mũi nhọn đều được nâng lên, được quốc tế ghi nhận, đánh giá cao Theo báo cáo năm 2020 của Ngân hàng Thế giới về Vốn nhân lực, thành phần kết quả giáo dục của Việt Nam đứng thứ 15, tương đương với các nước như Hà Lan, New Zealand, Thụy Điển. Nhiều chỉ số về Giáo dục của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực, như tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành Chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN; kết quả Chương trình Đánh giá kết quả học tập của học sinh tiểu học các nước Đông Nam Á SEA PLM năm 2019 cho thấy chất lượng giáo dục tiểu học của Việt Nam đứng vào tốp đầu của các nước ASEAN. Trong các đợt đánh giá PISA, Việt Nam có kết quả vượt trội so với trung bình của các nước trong khối OECD trong khi mức đầu tư cho giáo dục thấp hơn hẳn. Kết quả thi Olympic của học sinh Việt Nam những năm vừa qua có bước tiến bộ vượt bậc với 49 huy chương Vàng trong giai đoạn 2016-2020 so với 27 huy chương Vàng trong giai đoạn 2011-2015; nhiều học sinh Việt Nam đạt điểm số cao nhất ở các nội dung thi. Tự chủ đại học được đẩy mạnh, chất lượng đào tạo đại học có nhiều chuyển biến tích cực Nếu như trước đây chỉ có hai đại học quốc gia được giao quyền tự chủ cao, thì từ năm 2014 đã có 23 cơ sở giáo dục đại học được thí điểm thực hiện tự chủ tương đối toàn diện theo Nghị quyết 77 của Chính phủ. Năm 2019, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc so với năm 2018. Lần đầu tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top trường đại học tốt nhất thế giới; có 11 cơ sở giáo dục đại học Việt Nam nằm trong danh sách 500 trường đại học hàng đầu Châu Á. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên có nhiều chuyển biến tích cực Trong Chương trình giáo dục phổ thông mới, nội dung giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống tiếp tục được chú trọng, thực hiện thông qua tất cả các môn học, hoạt động giáo dục. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành giáo dục Toàn ngành Giáo dục đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý, dạy và học. Lần đầu tiên, toàn ngành Giáo dục đã xây dựng cơ sở dữ liệu ngành về giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông. Công nghệ thông tin được sử dụng rộng rãi trong các trong các hoạt động dạy và học; dạy học qua internet, trên truyền hình được thực hiện mạnh mẽ, nhất là trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội để phòng, chống dịch Covid-19. Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác giáo dục với hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Thí sinh phấn chấn kết thúc ngày thi đầu tiên 5 hạn chế, bất cập Cũng theo Bộ trưởng Nhạ, sau 7 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 29 của Trung ương, ngành giáo dục vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Đó là công tác quản lý nhà nước, quản trị nhà trường còn bất cập, trách nhiệm còn chồng chéo; việc kiện toàn Hội đồng trường các cơ sở giáo dục đại học còn chậm, hoạt động chưa thực chất, chưa phát huy tốt vai trò của Hội đồng trường. Thứ hai là tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ vẫn chưa được giải quyết triệt để ở một số địa phương; chất lượng đội ngũ giáo viên chưa đồng đều, còn một bộ phận giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, cá biệt có những giáo viên vi phạm đạo đức nhà giáo, gây bức xúc xã hội. Thứ ba là quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông ở một số địa phương chưa phù hợp, còn tình trạng thiếu trường, lớp ở một số khu đô thị, khu công nghiệp; thiếu đất cho xây dựng trường học, đặc biệt là ở các thành phố lớn; quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học và sư phạm còn chậm. Thứ tư là hệ thống quản lý, quản trị, kết nối, khai thác dữ liệu ngành phục vụ công tác quản lý, điều hành, dạy học còn chưa đồng bộ; một số nơi hạ tầng công nghệ thông tin, thiết bị kết nối còn thiếu, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn,chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số. Và bất cập thứ năm là công tác truyền thông về giáo dục còn hạn chế, chưa tạo được đồng thuận cao trong xã hội khi bắt đầu triển khai nhiều chủ trương, chính sách mới của ngành. Truyền thông nội bộ ngành chưa hiệu quả, còn những ý kiến trái chiều ngay trong đội ngũ giáo viên khi triển khai chính sách mới. Ông Nhạ cũng trình bày một loạt giải pháp tiếp tục thực hiện trong thời gian tới. Các giải pháp này thuộc 5 nhóm, trong đó được coi là đột phá là nhóm giải pháp về đổi mới cơ chế quản lý nhà nước và quản trị nhà trường. Ngoài ra là các nhóm giải pháp về Phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; Tiếp tục rà soát, quy hoạch mạng lưới trường, lớp; Đẩy nhanh chuyển đổi số trong giáo dục và Tăng cường công tác truyền thông. Ngân Anh Tham luận của Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo tại Đại hội XIII Bài tham luận của Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, sáng 27/1. Chuyên gia UNESCO nêu 2 khuyến nghị cho Giáo dục Việt Nam Bà Dominique Altner, Chuyên gia Chương trình Cao cấp tại Viện chiến lược giáo dục UNESCO, đã có những chia sẻ về sự phát triển của giáo dục Việt Nam trong 5 năm vừa qua.
Nghị quyết 88 quy định 'Ưu tiên hỗ trợ đầu tư kinh phí cho các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn để bảo đảm điều kiện tối thiểu thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông'. Tuy nhiên, báo cáo của các địa phương chưa rõ kinh phí chi ngân sách địa phương cho thực hiện đổi mới chương giáo khoa giáo dục phổ thông do chưa có nguồn kinh phí riêng cho việc thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Qua giám sát thực tế cho thấy, việc bảo đảm các điều kiện cơ sở vật chất được các địa phương thực hiện lồng ghép thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia và nguồn vốn của địa phương nên việc triển khai phụ thuộc vào khả năng cân đối của các địa phương dẫn đến mức độ đáp ứng điều kiện cơ sở vật chất thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018 của các địa phương khác nhau. Việc bố trí ngân sách của các địa phương để thực hiện tập huấn, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục phổ thông còn khó khăn, chủ yếu lồng ghép trong ngân sách chi thường xuyên; việc xã hội hóa giáo dục gặp nhiều khó quý vị và các bạn theo dõi nội dung chi tiết!Thực hiện Phan Hằng Đỗ Minh
1. Chương trình lớp 3 Tăng thêm 5 tiết/tuần, Tiếng Anh, Tin học là môn bắt buộcTrước đây, tại Chương trình giáo dục cũ ban hành kèm Quyết định 16/2006/QĐ-BGDĐT, Tiếng Anh ngoại ngữ 1 và Tin học chỉ là môn học tự chọn ở cấp tiểu học. Tuy nhiên, từ năm học 2022 - 2023, môn Tiếng Anh và môn Tin học sẽ là môn học bắt buộc được tổ chức dạy học từ lớp Chương trình giáo dục phổ thông mới, chương trình học lớp 3 gồm các môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc là Tiếng Việt; Toán; Đạo đức; Ngoại ngữ 1; Tự nhiên và Xã hội; Tin học và Công nghệ; Giáo dục thể chất; Nghệ thuật Âm nhạc, Mĩ thuật; Hoạt động trải cạnh đó, số tiết học của học sinh cũng có nhiều thay đổiMôn họcSố tiết trong nămSố tiết trong tuầnSo với chương trình cũTiếng Việt24507Giảm 01Toán17505Không đổiNgoại ngữ 114004Chương trình cũ không quy địnhĐạo đức3501Không đổiTự nhiên và Xã hội7002Không đổiTin học và Công nghệ7002Chương trình cũ không quy địnhGiáo dục thể chất7002Không đổiNghệ thuật Âm nhạc, Mĩ thuật7002Trước đây Âm nhạc, Mỹ thuật tách riêng mỗi môn 01 tiếtHoạt động trải nghiệm10503Chương trình cũ không quy địnhTiếng dân tộc thiểu số Môn tự chọn7002Chương trình cũ không quy định98028Tăng 05 tiểt/tuầnHọc sinh lớp 3, 7, 10 sẽ áp dụng Chương trình giáo dục mới trong năm học 2022 - 2023 Ảnh minh họa2. Chương trình lớp 7 Tích hợp nhiều môn học chungTheo Chương trình giáo dục mới, hai môn Sinh học, Vật lý sẽ được tích hợp chung thành môn Khoa học tự nhiên. Đồng thời, hai cặp môn Lịch sử và Địa lý, Âm nhạc và Mỹ thuật cũng được tích hợp lại. Tuy nhiên số tiết vẫn giữ nguyên thời lượng như chương trình hiện ra, các môn học, hoạt động bắt buộc bao gồm Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ 1, Giáo dục công dân, Công nghệ, Tin học, Giáo dục thể chất, Hoạt động trải nghiệm giáo dục của địa học tự chọn của chương trình lớp 7 là Tiếng dân tộc thiểu số hoặc Ngoại ngữ số tiết mỗi tuần của chương trình mới là 29, trong khi chương trình giáo dục cũ chỉ có 28,5+. Các trường được khuyến khích dạy 02 buổi/ngày, mỗi buổi không quá 05 tiết, mỗi tiết 45 học/Nội dung giáo dụcSố tiết/năm họcNgữ văn140Toán140Ngoại ngữ 1105Giáo dục công dân35Lịch sử và Địa lí105Khoa học tự nhiên140Công nghệ35Tin học35Giáo dục thể chất70Nghệ thuật Âm nhạc, Mĩ thuật70Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp105Nội dung giáo dục của địa phương35Tiếng dân tộc thiểu số môn tự chọn105Ngoại ngữ 2 môn tự chọn105Tổng số tiết học/năm học không kể các môn học tự chọn1015Số tiết học trung bình/tuần không kể các môn học tự chọn293. Chương trình lớp 10 Lịch sử, Vật Lý, Hóa học trở thành môn tự chọnHọc sinh không phải học 17 môn bắt buộc như trước đây. Thay vào đó, sẽ chỉ có 06 môn bắt buộc gồm Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ 1, Giáo dục thể chất, Giáo dục quốc phòng an ninh, Hoạt động trải nghiệm - hướng nghiệp, Nội dung giáo dục của địa ra, học sinh tự chọn 05 môn khác từ 03 nhóm mỗi nhóm chọn ít nhất 01 mônNhóm môn tự chọnMôn họcKhoa học xã hộiLịch sử, Địa lý, Giáo dục kinh tế và pháp luậtKhoa học tự nhiênVật lý, Hóa học, Sinh họcCông nghệ và Nghệ thuậtCông nghệ, Tin học, Nghệ thuật - Âm nhạc và Mỹ thuậtVề thời lượng học tập, các trường Trung học phổ thông tổ chức học 01 buổi, mỗi buổi không quá 05 tiết, mỗi tiết 45 phút. Khuyến khích các trường dạy học 02 buổi/ngày theo hướng dẫn của sinh sẽ học 29 tiết/tuần, thấp hơn mức 29,5+ theo chương trình trước đây là thông tin về chương trình giáo dục mới trong năm học 2022 - 2023. Mọi vướng mắc liên quan đến vấn đề này sẽ được LuatVietnam giải đáp qua tổng đài >> Toàn bộ đối tượng được miễn, giảm học phí từ 15/10/2021
hạn chế của chương trình giáo dục phổ thông mới